GIỚI THIỆU VỀ CÁT BÀ

Cát Bà được ví như đảo Ngọc của vịnh Bắc bộ. Nơi đây lôi cuốn bao du khách bởi vẻ đẹp hoang sơ của biển xanh, cát trắng và nắng vàng.

Huyện đảo Cát Hải  là một quần đảo có tới 367 đảo lớn nhỏ. Cát Bà là tên hòn đảo chính rộng khoảng 100km², cách cảng Hải Phòng 30 hải lý, nằm ở phía nam Vịnh Hạ Long, tạo nên một quần thể đảo và hang động trên biển làm hút hồn du khách.

Đến Cát Bà, du khách có thể cảm nhận được nơi đây có khí hậu mát mẻ ôn hòa. Các mùa ở đây thể hiện rõ rệt, không khí làm cho con người cảm thấy dễ chịu. Tháng 7, tháng 8 thường có mưa bão, gió nam thổi mạnh, tháng cuối năm có mưa dầm và sương mù.

Cát Bà là một hòn đảo đẹp và thơ mộng, nằm ở độ cao trung bình 70m so với mực nước biển (dao động trong khoảng 0–331 m). Trên đảo này có thị trấn Cát Bà ở phía đông nam (trông ra vịnh Lan Hạ) và 6 xã: Gia Luận, Hiền Hào, Phù Long, Trân Châu, Việt Hải, Xuân Đám. Cư dân chủ yếu là người Kinh.

Tương truyền xưa kia tên đảo là Các Bà, là hậu phương cho Các Ông theo Thánh Gióng đánh giặc Ân. Ở thị trấn Cát Bà hiện nay có đền Các Bà. Các bản đồ hành chính thời Pháp thuộc (như bản đồ năm 1938) còn ghi là Các Bà. Như vậy có lẽ tên gọi Các Bà đã bị đọc trệch thành Cát Bà.

Đảo Cát Bà là tấm thảm xanh khổng lồ chứa đựng nhiều bí ẩn, hấp dẫn. Cát Bà xứng đáng là khu dự trữ sinh quyển thứ 3 Việt Nam, hiện đã được UNESCO công nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới. Tổng diện tích khu dự trữ sinh quyển Cát Bà rộng hơn 26.000 ha, với 2 vùng lõi (bảo tồn nghiêm ngặt và không có tác động của con người), 2 vùng đệm (cho phép phát triển kinh tế hạn chế song kết hợp với bảo tồn) và 2 vùng chuyển tiếp (phát triển kinh tế). Khu dự trữ sinh quyển Cát Bà là vùng hội tụ đầy đủ cả rừng mưa nhiệt đới trên đảo đá vôi, rừng ngập mặn, các rạn san hô, thảm rong và đặc biệt là hệ thống hang động

Quần đảo Cát Bà

Cát Bà xưa và nay

* Giai đoạn lịch sử

Các bằng chứng khảo cổ học cho thấy con  người đã sinh sống tại Cát Bà ít nhất 6000 năm về trước. Di tích được cho là khu định cư sớm nhất là Cái Bèo nằm cách thị trấn Cát Bà khoảng 2km, được khai quật vào năm 1972, 1973, 1981 và 1983 bởi hai nhà khoa học người Pháp. Hàng trăm di chỉ đã được tìm thấy như chày, đĩa mài, miếng nêm, dây dẫn và rìu… Nhiều di vật được làm từ đá cuội, hoặc chất liệu gốm thô sơ từ đất sét và cát. Các dấu tích về hóa thạch xác người cũng được tìm thấy cùng với bằng chứng về nơi ở của họ. Khu định cư Cái Bèo thuộc về văn hóa Hà Long cổ đại tồn tại 6473-4200 năm trước. Theo truyện dân gian về đảo Cát Bà, đây là những người đầu tiên đến chiếm cứ lãnh hải phía đông bắc Việt Nam để khai thác biển và canh tác.

Đảo Cát Bà có nghĩa là ‘Đảo Phụ Nữ’. Truyền thuyết kể rằng có ba người phụ nữ thời nhà Trần đã chết và trôi dạt đến ba bãi bãi cát khác nhau trên đảo. Sau đó, dân địa phương đã xây dựng những đền miếu trên mỗi bãi biển đêtr tưởng nhớ, từ đó đảo được gọi là “Đảo Cát Bà” với 3 miếu được gọi là “miếu Các Bà”. Đối diện thị trấn Cát Bà là đảo nhỏ Cát Ông (nơi bí mật để binh lính cất giấu vũ khí thời Pháp thuộc)

Người Pháp đã đến đảo Cát Bà từ năm 1947 đến 1955. Vì là một hòn đảo chiến lược ven biển nên Cát Bà rất quan trọng đối với binh lính Pháp, dân địa phương đã đấu tranh kiên cường để giữ đảo. Trong thời gian này, dân địa phương thường trốn ở các hang động, rừng hoặc núi khiến người Pháp sợ hãi. Hiện nay trên đảo có một tượng đài tưởng nhớ những người dân địa phương bị thực dân Pháp giết hại.

Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, đảo Cát Bà là một địa danh nổi bật trong sách lịch sử. Trong nhiều cuộc tấn công ném bom của Mỹ ở miền bắc, Cát Bà trở thành mục tiêu ném bom của quân địch, cho đến ngày nay vẫn có thể nhìn thấy một số hố bom ở nhiều nơi trên đảo. Một trong những địa danh lịch sử nổi bật của thời kỳ kháng chiến chống quân xâm lược là “Hang Quân Y” – nơi trú ẩn quan trọng vào năm 1965 cho những người bị thương trong chiến tranh. 

* Người sống trên đảo Cát Bà (18.042)

Trong đó thị trấn Cát Bà là 11.984 người, gồm sáu làng (6.048), làng chài nổi (890), và trên đảo Cát Hải (11.649). Có hai nhóm người dân sống trên đảo là Người dân tộc Việt (người Kinh) chuyển đến Cát Bà sau năm 1979, nhóm thứ hai là người Việt gốc Hoa, có nguồn gốc từ các nhóm ngư dân đánh cá đã sinh sống trên Cát Bà trong nhiều thế hệ. Ngư dân và nông dân sống ở Trân Châu (xã lâu đời và lớn nhất trên đảo); xã Gia Luận có nông dân, ngư dân và một số thợ săn bắt sinh sống; xã Phù Long có ngư dân và dân làm muối, xã Xuân Đám là nông dân. Xã Việt Hải là xã nhỏ nhất của đảo với hơn 200 người sinh sống trong những ngôi nhà đơn sơ, làm từ tre, gỗ, lá và tường đất, đây là một làng chài nhỏ làm về nông nghiệp, người dân chân thành, giản dị và rất hiếu khách.

Phong cách sống của người dân Cát Bà

*Về văn hóa:

Cát Bà khác với cách sống của người Hà Nội và nhiều nơi khác vì di sản Việt – Trung, cộng đồng ngư dân và văn hóa ngư dân.

Một số sự kiện thường niên và những ngày lễ lớn:

Vào ngày 1 tháng 4 hàng năm, người Cát Bà tổ chức lễ hội truyền thống để kỷ niệm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm làng chài Cát Bà vào năm 1959. Đây cũng là ngày truyền thống của ngành sản xuất biển Việt Nam và bắt đầu mùa du lịch tại Cát Bà. Tại lễ hội, du khách sẽ được thưởng thức các cuộc đua lướt sóng và đua thuyền trên biển.

*Về kinh tế

Nông nghiệp (vải thiều, cam Gia Luận, mật ong)

Nuôi trồng thủy sản (tôm Phù Long, cá, cua, muối và nước mắm Cát Hải)

Du lịch.

Tạo trang giống vầy với WordPress.com
Hãy bắt đầu